Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Niềm tin tín ngưỡng của người Việt Nam qua những con số

     Đã có thời kỳ, người ta nghĩ một cách đơn giản rằng xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu.

Niềm tin tín ngưỡng của người Việt Nam qua những con số

     Khoa học cũng đang tìm cách chứng minh về dòng điện sinh học có thật giữa những người chung huyết thống dù họ ở rất xa nhau. Vậy có sự liên hệ giữa người sống và người thân đã mất không? Các nhà nghiên cứu còn đang tìm tòi, nhưng niềm tin về mối liên hệ ấy vốn đã tồn tại, lưu giữ hàng nghìn năm, vẫn còn đang chi phối con người thời hiện tại.

    Trước hết, chúng ta cấn lưu tâm đến các số liệu điều tra thực tế:

    Trong chuyên luận Thực trạng văn hóa gia đình Việt Nam, qua khảo sát năm địa bàn hai đô thị lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ba vùng nông thôn là Hà Tây, Hòa Bình và Cần Thơ, các phiếu điều tra cho chúng ta thấy những con số về tín ngưỡng này:

- 100% gia đình có bàn thờ tổ tiên.

- 96,75% bàn thờ được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong nhà.

- 95,85% các cặp vợ chồng đều nhớ ngày giỗ của người thân.

     Việc chăm sóc mồ mả tổ tiên những năm gần đây được chútrọng nhiều hon trước, gần 100% gia đình ở nông thôn thường xuyên chăm nom. Ở Hà Nội, con số này là 85% và thành phố Hồ Chí Minh là 89%.

     Cũng theo kết quả khảo sát của tác giả cuốn sách, các nghi thức tang lễ cúng giỗ, sau một thời gian dài tiến hành giản tiện (do chiến tranh hoặc do điều kiện kinh tế), hiện nay đang quay trở lại vớinhững hình thức cầu kỳ, phức tạp. Nhiều gia đình mời cả nhà sư đến cầu kinh trong tang lễ: 61,22% ở thành phố Hồ Chí Minh, 48% ở Hà Nội, 4% ở nông thôn Hà Tây, 3,13% ở nông thôn cần Thơ. Xu hướng gửi linh hồn ngườichết lên chùa (để nhà chùa thường xuyên hương khói) cũng tăng: Hà Nội 28%, thành phố Hồ Chí Minh 28,4%, nông thôn Hà Tây 3%, cần Thơ 1,56%. Riêng ở Hòa Bình, người Mường không có phong tục này.

     Tín ngưỡng thờ cúng ông Tổ dòng họ cũng được phục hồi. Ở các nơi đều có hiện tượng đua nhau dựng lại và tu sửa từ đường dòng họ, xây cất, quy tụ mồ mả tổ tiên. Việc tập họp con cháu trong ngày giỗ được coi như việc làm đương nhiên cần thiết ở nông thôn: ở Hà Tây 91%, Hòa Bình 88,5%, cần Thơ 86%. Ngay ở các đô thị, việc tập họp xem chừng rất khó khăn, nhưng con số cho thấy cũng đáng kể: 27% ở Hà Nội và 18,4% ở thành phố Hồ Chí Minh. Riêng vấn đề gia phả có điều đặc biệt. Do một thời gian dài chiến tranh, gia phả bị thất lạc và bị coi nhẹ nên đa số các gia đình không còn gia phả (ở Hà Nội số gia đình còn gia phả là 15%, thành phố Hồ Chí Minh là 15,3%). Càng hiếm các gia đình những năm gần đây ghi chép tiếp gia phả (8% ở Hà Nội, 8,2% ở thành phố Hồ Chí Minh). Ngườita đã rút ra nhận xét rằng: “Việc phục hồi gia phả khó khăn hơn nhiều so với việc phục hồi thờ cúng tổ 
tiên”.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: tục thờ cúng tổ tiên, cúng gia tiên

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
;